Monthly Archives: June 2013

Luân Đôn, Ba Lê, Nữu Ước

Tôi thích sương mù Luân Đôn. Tôi nghĩ Luân Đôn đặc biệt vì màn sương mờ mịt đó. Cái hư ảo làm cho Cầu Tháp (Tower Bridge) trông xa như một đền nguyện cổ kính, khi đèn lên thì giống lâu đài trong mơ, và khi đến gần, đứng ở đầu cầu nhìn sang, thì có cảm giác của một sự hoài vọng dang dở.

Tôi còn thích ngắm Mắt Phố (The London’s Eye) trong sương. Hùng vĩ và chỉ nhìn rõ nhất là giá đỡ hình chữ A của nó. Hình như một vị thánh thích sự mộc mạc và thủy chung, đã đặt tại đây một chiếc đồng hồ với duy nhất hai kim dài như nhau và cắm chết ở một vị trí. Rồi mặc định nó là ánh mắt mãi mãi dịu dàng, mãi mãi chỉ nhìn dòng Thames, và thời gian ngừng ở đó.

Trong sương Luân Đôn tôi đã đứng ngẩn ngắm nhà thờ Thánh Paul (St Paul’s Cathedral) .Ở một góc nhìn, nhà nguyện trong sương chỉ lộ những đỉnh chóp tròn, rồi nhọn, và những nhánh cây vươn ngang dọc. Một sự cô độc thắt lại. Nhưng dời tầm mắt đi, chuyển bước chân theo, nhà thờ nguy nga với bao nhiêu gian tháp, còn bên trong, trần tháp cao vời vợi. Sự uyên bác làm tim tôi bồi hồi.

Tôi rời Luân Đôn cũng trong chiều sương. Sân bay vắng, chỉ một người đến tiễn. Jacket da đen, tóc dài xõa, anh còn mang theo guitar. Tôi ôm anh và khóc.

Hình như rất lâu, rất rất là lâu, sau hai mươi tuổi, tôi đến Ba Lê (Paris). Vào một tiệm bán guitar thùng. Gỗ gì đấy màu nâu, tôi có biết gì đâu, tôi vào vì người chủ gảy bài Bang Bang của Cher. Bài này tiếng Việt là Khi Xưa Ta Bé. Nghe xong tôi đi mua một chiếc bánh Croissant nho khô nhâm nhi. Tôi nhìn thấy những chàng trai Pháp vào tiệm mua bánh với bạn gái. Mua rồi, trả tiền, cầm túi bánh, lại còn mở cửa cho người yêu đi ra. Mùa đó là mùa hè, mà tôi thấy mát mẻ lạ.

Tôi chờ đêm để đi Champs-Élysées. Tôi nghĩ đại lộ là ví dụ hùng hồn nhất cho danh phong Kinh Đô Ánh Sáng của Ba Lê. Những quán nối nhau, đèn giăng rực rỡ, vùng bộ hành thênh thang mà tấp nập. Tôi đi như ngập trong tiếng người, trong ánh sáng, trong dập dìu nhân sinh vô ưu tư. Cho đến khi tôi đến Khải Hoàn Môn và dòng đời vãn đi. Tôi vẫn bối rối vì Ba Lê yêu kiều xôn xao ấy. “Một cuộc hội hè miên man” (Ernest Hemingway).

Tôi còn nhìn thấy tháp Eiffel cũng rực đèn và sông Seine lấp lánh. Bãi cỏ xanh sau tháp, ban ngày đông, ban đêm cũng đông. Có cô gái tóc dài, vàng óng, mắt xanh, đầu trên gối một chàng trai, cũng mắt xanh, tóc vàng, họ cùng nhau nhìn tháp Eiffel. Tôi cảm thấy tình yêu của họ. Và mùa hè lại mát lành trong tôi.

Tôi chẳng ở Ba Lê lâu để ngắm đủ và cảm hết, tôi rời Ba Lê chiều mưa nhè nhẹ. Sân bay lại có những tình nhân che dù, khoác áo cho nhau. Tôi nghĩ tôi sẽ không nhớ nhiều một Ba Lê phồn hoa, mà tôi sẽ giữ hoài ấn tượng về một mùa hè vị Croissant nho khô và hương cỏ ngai ngái thoang thoảng, một nơi chốn tình tứ. Dù như thế thì tôi lại nhớ một người, và trên máy bay, tôi lại khóc.

Trước khi đến Nữu Ước (New York), tôi cắt tóc. Rất ngắn. Lúc đi tôi mặc jacket da đen, nón len, jean bạc, kéo va li bị hỏng bánh xe, kêu ken két. Người bạn cười tôi, nhất định là muốn gây sự chú ý đây. Tôi gật. Nhưng ở Nữu Ước thì có biết bao sự nổi bật, một đứa con gái tóc ngắn, ăn mặc bụi bặm, và một chiếc vali ồn ào, thì có sao đâu nhỉ.

Việc đầu tiên chúng tôi làm khi đến Nữu Ước là đi thăm mộ một người bạn. Xe chạy qua cầu Brooklyn, chiếc cầu như được treo trong không bằng những dây cáp sắt, trông xa thì ngỡ mảnh như mành, trên cầu lại ngỡ như là trong lưới cá. Cầu rất dài, xe rất đông. Và tôi càng thấy rõ cái cảm giác mắc cạn. Khi hai bên là trời nước xanh biếc, bao la, còn mình bị giam trong chiếc xe bé nhỏ, mắc kẹt giữa đường chật chội.

Sau khi thăm bạn chúng tôi đi tàu sang chỗ tượng Nữ Thần Tự Do (Statue of Liberty). Nữ thần oai phong, gương mặt cương nghị, tay phải giương đuốc lửa tay trái ôm bảng luật, hình như khắc ngày quốc khánh nước Mỹ. Người bạn đã mất của tôi, tro đã được thả xuống dòng sông bên chân tượng. Tôi từng nói với bạn về cảm giác “kẹt xe” kia, bạn bảo tôi, vì thế mà Nữu Ước có Nữ Thần Tự Do đấy. Để sự rộng mở và mạnh mẽ của nàng tiếp sức cho người ta trong dòng đời đã hẹp hòi lại còn cuồn cuộn kia.

Chúng tôi đến Broadway. Mười hai giờ đêm mà vẫn đầy đèn, đầy người, đầy xe. Tôi choáng ngợp, rồi thích thú, rồi nhớ đến cái tên Thành Phố Không Ngủ của Nữu Ước. Những bảng đèn nhấp nháy và như chất chồng chất lớp lên nhau, những chiếc xe taxi vàng vụt ghé vào vệ đường bắt khách rồi vụt đi, những con người ăn to nói lớn bước đi hối hả. Cái rộn ràng thô ráp quá, nhưng sức sống thì nồng nàn đến ngây ngất.

Buổi sáng trước ngày về tôi một mình đi xe bus vòng quanh Nữu Ước. Xe có hai tầng, màu đỏ tươi, du khách lên nườm nượp. Một cô bé khoảng mười lăm, tóc ngắn còn hơn tôi, nhưng mặc jean cổ điển và áo thun cũng đơn giản. Cô làm quen với tôi trước, kể chuyện cô sắp dọn về ở Manhattan. Tôi tỏ ý ngưỡng mộ thì cô nói vì bố mẹ cô vừa mất trong tai nạn xe nên cô dọn về sống với ông bà. Tôi chưa kịp buồn thì cô lại nói cô sẽ không sao, vì cô là Newyorker. “It will pass when we move on!” Cô nói và tôi khắc vào lòng ánh mắt long lanh của cô.

Rời Nữu Ước, tôi gọi cho anh ngay khi vừa xuống sân bay…

Hình như thời gian đã dừng lại. Tôi nhớ hình ảnh một vòng xoay lớn im lìm trong sương, bóng mờ in trên mặt sông cũng êm êm lặng tờ. Tôi nhớ “cuộc hội hè miên man” của Paris và những tình yêu trong vị bánh ngọt, hương cỏ, bụi mưa…Tôi giật mình khi hình như đã thấy, và thấy rất rõ, người con trai áo jacket đen, tóc dài, đàn guita để trong túi khoác trên vai. Và tôi đã khóc.

Nhưng bây giờ thì tôi không khóc. Và thời gian vẫn đi, như thật ra nó chưa từng dừng lại, mà chỉ có tôi đã tự giam mình.

Thời gian thậm chí còn chạy nhanh hơn, khi tôi vừa nghĩ đến Nữ Thần Tự Do, vừa nghĩ đến cô bé mồ côi, vừa nói ngắn gọn trong điện thoại, “Chào anh, đã lâu không liên lạc, em đồng ý làm bạn của anh!”

Hết.
Lady Vịt- we’re once innocent!